Kỷ niệm 30 năm Ngày truyền thống Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 30 năm Ngày truyền thống Hội Cựu chiến binh Việt Nam (6/12/1989 – 6/12/2019). Trang thông tin điện tử tổng hợp Công an tỉnh Kon Tum trân trọng giới thiệu toàn văn bản Đề cương.
I. SỰ RA ĐỜI, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM
1. Sự ra đời Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Sau hơn nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng và kháng chiến chống giặc ngoại xâm, cả nước có trên 4 triệu cựu chiến binh (sau đây viết tắt là CCB), là những người đã cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; được rèn luyện qua thử thách, gian khổ và tích lũy nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh cách mạng; kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc. Có những đồng chí từng tham gia các đội tự vệ Đỏ trong phong trào XôViết Nghệ-Tĩnh năm 1930 – 1931, tham gia Đội du kích Bắc Sơn, du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, du kích Ba Tơ…; nhiều đồng chí tham gia chiến đấu từ những ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp; số đông trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế.
Trước bối cảnh tình hình thế giới, trong nước hết sức khó khăn, với bản lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết, trách nhiệm đối với vận mệnh của Tổ quốc, CCB mong muốn được tập hợp thành một tổ chức thống nhất, hợp pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ở một số địa phương đã xuất hiện những Câu lạc bộ CCB, Ban liên lạc truyền thống, Ban liên lạc đồng đội, đồng ngũ… nhằm giúp đỡ nhau trong cuộc sống đời thường. Nhiều ban liên lạc, câu lạc bộ CCB đề nghị Đảng, Nhà nước cho phép thành lập tổ chức Hội CCB trong cả nước.
Xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới và đáp ứng nguyện vọng thiết tha, chính đáng của đông đảo CCB Việt Nam, ngày 06/12/1989, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định cho thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Từ đó, ngày 6/12 hằng năm được lấy làm Ngày truyền thống của Hội. Sự ra đời của Hội Cựu chiến binh Việt Nam là dấu mốc lịch sử quan trọng trong đời sống chính trị, tinh thần, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của lực lượng CCB để tiếp tục cống hiến xây dựng quê hương, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước trong thời bình, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu. Hội Cựu chiến binh Việt Nam ra đời đã thu hút đông đảo các thế hệ CCB tham gia, tổ chức Hội nhanh chóng được hình thành và phát triển ở khắp mọi miền đất nước.
2. Quá trình xây dựng và hoạt động của Hội Cựu chiến binh Việt Nam qua các kỳ Đại hội
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là một đoàn thể quần chúng cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động chính trị – xã hội trong khuôn khổ đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội; là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, Hội CCB Việt Nam nhanh chóng khẳng định được vai trò, vị trí của mình, từng bước xây dựng hệ thống tổ chức Hội vững mạnh; bảo đảm chính trị, tư tưởng, đội ngũ cán bộ, hội viên. Hệ thống tổ chức Hội đã được xây dựng hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ sở; đến nay 100% xã, phường có tổ chức Hội và xuống các thôn, ấp, bản, tổ dân phố đều có chi hội, phân hội hoặc có CCB làm nòng cốt trong công tác vận động quần chúng[1].
Trải qua 30 năm xây dựng và trưởng thành, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã tiến hành 6 lần Đại hội đại biểu toàn quốc.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I (nhiệm kỳ 1992 – 1997): Họp từ ngày 19 – 20/11/1992 tại Hội trường Ba Đình, Hà Hội. Dự Đại hội có 318 đại biểu đại diện cho 700.000 hội viên cả nước. Đại hội suy tôn Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Thượng tướng Trần Văn Quang được bầu làm Chủ tịch Hội. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ “Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, nắm vững những quan điểm cơ bản của Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa VI) cùng các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương (Khóa VII), Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước… để định hướng cho việc xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động của Hội”.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (nhiệm kỳ 1997 – 2002): Họp từ ngày 17-18/12/1997, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 432 đại biểu đại diện cho 1.350.000 hội viên trong cả nước. Đại hội tiếp tục suy tôn Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch danh dự; Thượng tướng Trần Văn Quang được bầu làm Chủ tịch Hội. Nghị quyết Đại hội đưa ra phương hướng trọng tâm: đoàn kết, năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Nhiệm kỳ này, công tác CCB Việt Nam được đưa vào văn kiện chính thức Đại hội IX của Đảng và ra Nghị quyết chuyên đề số 09-NQ/TW, ngày 8/01/ 2002, về ‘Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCB Việt nam trong giai đoạn cách mạng mới”.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (nhiệm kỳ 2002 – 2007): Họp từ ngày 26-28/12/2002, tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Dự Đại hội có 417 đại biểu, đại diện cho 1,7 triệu hội viên trong cả nước. Đại hội tiếp tục suy tôn Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch danh dự; Trung tướng Đặng Quân Thụy được bầu làm Chủ tịch Hội. Đại hội xác định nhiệm vụ “Tăng cường đoàn kết, vận động các thế hệ CCB thành một lực lượng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, gương mẫu chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước”. Hội đã tham mưu cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh CCB số 19/2005/L/CTN, ngày 18/10/2005; tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 150/2006/NĐ-CP, ngày 12/12/2006 về “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Pháp lệnh CCB”.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (nhiệm kỳ 2007 – 2012): Họp từ ngày 12-14/12/2007, tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Dự Đại hội có 497 đại biểu, đại diện cho 2,2 triệu hội viên cả nước. Đại hội tiếp tục suy tôn Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch danh dự; Trung tướng Trần Hanh được bầu làm Chủ tịch Hội. Chủ đề của Đại hội là “Đoàn kết vận động các thế hệ CCB phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”,“Trung thành, đoàn kết, gương mẫu, đổi mới”; phát huy tiềm năng đa dạng của CCB, tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ XHCN, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X”.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (nhiệm kỳ 2012 – 2017): Họp từ ngày 18- 20/12/2012, tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Dự Đại hội có 510 đại biểu, đại diện cho 2,7 triệu hội viên cả nước. Đại hội tiếp tục suy tôn Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch danh dự; bầu Thượng tướng Nguyễn Văn Được làm Chủ tịch Hội. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ “Tiếp tục vận động các thế hệ CCB đoàn kết, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; xây dựng Hội trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đổi mới, nâng cao hơn nữa phương thức và hiệu quả hoạt động; chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CCB, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (nhiệm kỳ 2017 – 2022): Họp từ ngày 13-15/12/2017, tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Dự Đại hội có 516 đại biểu, đại diện cho gần 3 triệu hội viên cả nước. Đại hội bầu Thượng tướng Nguyễn Văn Được làm Chủ tịch Hội; đề ra mục tiêu tổng quát “Tiếp tục phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; trung thành – đoàn kết – gương mẫu – đổi mới; xây dựng tổ chức Hội trong sạch, vững mạnh; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ…”.
3. Những truyền thống vẻ vang của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Qua 30 năm xây dựng và trưởng thành, các thế hệ CCB Việt Nam tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng Hội trong sạch, vững mạnh, khẳng định vị thế của một tổ chức chính trị – xã hội, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và niềm tin yêu của nhân dân; xây dựng nên truyền thống vẻ vang của Hội: TRUNG THÀNH – ĐOÀN KẾT – GƯƠNG MẪU – ĐỔI MỚI.
– Trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ XHCN và Nhân dân đã được hàng triệu CCB tôi luyện, thử thách, khẳng định trong chiến tranh cách mạng, truyền thống đó lại càng được phát huy mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
– Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc, của Đảng và Quân đội ta đã được Hội Cựu chiến binh Việt Nam kế thừa và phát huy. Đường lối, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, lợi ích của nhân dân và chức năng, nhiệm vụ của Hội là cơ sở để đoàn kết, thống nhất trong xây dựng và hoạt động. Hội không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết gắn bó trong nội bộ, đoàn kết với nhân dân, đoàn kết quốc tế.
– Gương mẫu là phẩm chất tốt đẹp của người CCB Việt Nam, thể hiện qua năng lực, phẩm chất, đạo đức, lối sống đối với Nhân dân và trong tổ chức, cơ quan, đơn vị mình sống và làm việc; nói đi đôi với làm là phương châm hành động của hàng triệu CCB; nhiều CCB là những tấm gương sáng, mẫu mực, uy tín được nhân dân tin tưởng, làm theo và yêu mến.
– Đổi mới với phương châm“ Cựu mà không cũ, cựu mà mới”, các cấp hội, hội viên CCB đã quán triệt, thấm nhuần và thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; nhất là đổi mới về tư duy, lý luận, tác phong, phương pháp chỉ đạo và hoạt động thực tiễn. Nhiều tổ chức hội, hội viên đã nỗ lực, nghiên cứu, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn đem lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
II. NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT QUA 30 NĂM
1. Vận động CCB giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, bảo vệ Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Hội CCB Việt Nam luôn xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu của Hội. Các cấp Hội thường xuyên quan tâm quán triệt, tổ chức, vận động hội viên giữ vững bản lĩnh chính trị, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện và vận động nhân dân thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tích cực tham gia cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch vững mạnh; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội; chủ động ngăn chặn, đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản động; phối hợp với các cơ quan, ngành, đoàn thể kịp thời xử lý kiên quyết, khôn khéo, hiệu quả các điểm “nóng”, phức tạp và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bám sát cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, động viên CCB tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh; triển khai có hiệu quả nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội; xây dựng đoàn kết trong nội bộ Hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Tổ chức, động viên CCB nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, phấn đấu giảm nghèo bền vững, làm giàu hợp pháp; tham gia tích cực và có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước
Các cấp hội tích cực vận động CCB phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm; sáng tạo trong lao động, sản xuất và huy động mọi nguồn lực, giúp đỡ của cấp uỷ, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương; tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với CCB để đẩy mạnh việc giúp nhau làm kinh tế, nâng cao đời sống, giảm nghèo nhanh và bền vững, vươn lên làm giàu hợp pháp, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Tuy có không ít khó khăn, thử thách nhưng các doanh nghiệp, hợp tác xã do CCB làm chủ vẫn đứng vững và tiếp tục phát triển, góp phần giải quyết việc làm cho CCB và con em CCB, gia đình chính sách. Có nhiều tổ hợp tác, tổ đổi công, vần công, quỹ “Nghĩa tình đồng đội”, quỹ “Xoá nghèo cho hội viên”, nhiều hình thức thiết thực, hiệu quả, giúp nhau xóa nghèo, phát triển kinh tế.
3. Phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các ban ngành, đoàn thể; tham gia tích cực, có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào của đất nước, địa phương
Trung ương Hội Cựu chiến binh xây dựng chương trình phối hợp với Chính phủ, các bộ, ngành và đoàn thể như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Bộ Công an, Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam; phối hợp với Ban Chỉ đạo Quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và Hiệp hội Doanh nhân Hội Cựu chiến binh Việt Nam tổ chức các chương trình “Tri ân đồng đội, vang mãi khúc quân hành”, công tác đền ơn, đáp nghĩa được triển khai hiệu quả từ Trung ương tới địa phương.
Các cấp hội đã tổ chức triển khai, hưởng ứng nhiều phong trào với nội dung, hình thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả, như: Cuộc vận động “CCB Việt Nam tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; các phong trào phòng, chống tội phạm, ma túy và tệ nạn; phong trào bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm; chương trình xóa đói, giảm nghèo…[2]
4. Vận động quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” tham gia tổ chức Câu lạc bộ, Ban liên lạc Cựu quân nhân, tích cực tham gia các phong trào ở cơ sở
Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và trách nhiệm đối với việc vận động, tập hợp Cựu quân nhân, các cấp hội chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền ở cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo, thành lập Ban liên lạc, Câu lạc bộ Cựu quân nhân ở cơ sở, đã thu hút, động viên hơn một triệu người tham gia.
5. Tham gia thực hiện tốt chế độ, chính sách; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên và CCB. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý cho hội viên và CCB
Trung ương Hội đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan chức năng Trung ương nghiên cứu trình Chính phủ ban hành Nghị định 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Pháp lệnh CCB và Nghị định số 157/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 150/2006/NĐ-CP; điều chỉnh và ban hành mới một số chính sách về tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm y tế, tổ chức tang lễ đối với hội viên, CCB; Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ đến năm 2020 và những năm tiếp theo, các quyết định về chính sách đối với người tham gia kháng chiến… phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, hội viên và CCB.
Chủ động tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các chế độ, chính sách đã ban hành đối với người có công; đồng thời phổ biến, triển khai thực hiện đến các tổ chức Hội, hội viên các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước mới ban hành đối với CCB, Cựu quân nhân. Phối hợp với MTTQ, các đoàn thể nhân dân tham gia giám sát việc thực hiện chính sách tại các địa phương, cơ quan, đơn vị; kịp thời phát hiện những vấn đề bất cập, kiến nghị với cấp có thẩm quyền giải quyết và bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Kịp thời tư vấn, giải đáp những vướng mắc về pháp luật, chế độ, chính sách cho hội viên, CCB.
6. Tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ
Các cấp hội đã phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tích cực tham gia giáo dục, bồi dưỡng truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; phát hiện, theo dõi, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú để giới thiệu cho Đảng xem xét, kết nạp; động viên đoàn viên, thanh niên lên đường nhập ngũ; giúp đỡ, tạo việc làm cho đoàn viên, thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, thanh niên có hoàn cảnh khó khăn.
7. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước
Ngay từ khi mới thành lập, Hội rất coi trọng và tích cực mở rộng quan hệ, đối ngoại với các nước trong khu vực và thế giới; nhằm nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế như: hợp tác với Hiệp Hội CCB Quốc gia Lào và Campuchia ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả (đặc biệt Hội CCB các tỉnh, thành phố có chung đường biên giới với nước bạn). Hội duy trì trao đổi thông tin và giữ mối quan hệ chặt chẽ với tổ chức CCB các nước: Nga, Mỹ, Hàn Quốc, Ma-rốc, Đức, Ba Lan, Bun-ga-ri,… góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc; tích cực tuyên truyền đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần thúc đẩy giải quyết hậu quả chiến tranh. Giữ mối quan hệ thường xuyên với các Câu lạc bộ, Ban liên lạc CCB Việt Nam ở nước ngoài để động viên CCB giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Tham gia tích cực và có trách nhiệm với các tổ chức CCB quốc tế như: Liên đoàn CCB các nước ASEAN (VECONAC), Liên đoàn CCB thế giới (WVF), Ủy ban Thường trực CCB khu vực Châu Á- Thái Bình Dương (SCAP).
8. Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
Các cấp Hội đã coi việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội là nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Hội, quan tâm công tác xây dựng Hội trên cả 3 phương diện: chính trị tư tưởng; tổ chức và đội ngũ cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát. Nội dung, phương thức hoạt động được đổi mới, thể hiện rõ hơn vai trò, tính chất của một tổ chức chính trị – xã hội; có sự phân công trách nhiệm cụ thể, tạo sự đồng thuận và thống nhất cao trong hành động; Hội gắn công tác xây dựng, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, các phong trào của địa phương, ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị. Hướng mạnh về cơ sở; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm, tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát; tích cực đổi mới nội dung, hình thức nâng cao chất lượng sinh hoạt, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở Hội. Thường xuyên quan tâm đổi mới phong cách, lề lối làm việc, nói đi đôi với làm của lãnh đạo, cơ quan Hội từ Trung ương tới cơ sở, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn hoạt động của Hội.
Qua 30 năm xây dựng và trưởng thành, Hội Cựu chiến binh Việt Nam vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2012), hai Huân chương Độc lập hạng Nhất (năm 2002, 2009), Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 2017), Huân chương Lao động hạng Ba (năm 2005) vì đã có công lao to lớn và có nhiều thành tích xuất sắc trong công cuộc đổi mới của đất nước; đặc biệt Hội được nước CHDCND Lào tặng Huân chương Ítxala (Tự do) hạng Nhất; Hội đã có hàng trăm tập thể cá nhân của Hội được tặng thưởng Huân chương Lao động các hạng, trong đó có 21 cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới và hàng trăm tập thể, cá nhân đã được Thủ tướng Chính phủ; các ban, bộ, ngành, chính quyền các cấp khen thưởng và tặng nhiều danh hiệu cao quý khác.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Bài học kinh nghiệm
(1) Triệt để tuân thủ nguyên tắc hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Các cấp Hội phải luôn bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chức năng, nhiệm vụ chính trị của Hội; thường xuyên coi trọng và tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tập hợp, đoàn kết, động viên CCB tiếp tục giữ vững và nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”.
(2) Các hoạt động của Hội phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của hội viên; luôn quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần; tích cực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CCB, sâu sát cơ sở, gắn bó mật thiết với hội viên. Động viên CCB nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi, vươn lên làm giàu hợp pháp, chủ động, tích cực trong vận động, khai thác các nguồn lực ở địa phương.
(3) Phải thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đổi mới công tác thi đua, khen thưởng. Trong tổ chức thực hiện phải tạo được sự thống nhất về nhận thức, xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu, trọng tâm, trọng điểm, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; lựa chọn đúng vấn đề ưu tiên, có tính đột phá; đưa ra các giải pháp linh hoạt, sáng tạo, huy động được sức mạnh nội lực của tổ chức Hội, hội viên. Chú trọng việc xây dựng và nhân rộng các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, các mô hình hay, hoạt động sáng tạo, hiệu quả; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động.
(4) Thực hiện sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, tổ chức đoàn thể, nhân dân trong mọi hoạt động của Hội; được cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể quan tâm tạo điều kiện và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả.
(5) Chú trọng xây dựng tổ chức Hội trong sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nâng cao trình độ, năng lực cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt là nền tảng để nâng cao chất lượng hoạt động của Hội; gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ.
2. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời gian tới
(1) Tiếp tục vận động CCB đoàn kết, giữ vững và phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Hội.
(2) Phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, động viên CCB nêu cao tinh thần tự lực, tự cường; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống; phấn đấu giảm nghèo bền vững, làm giàu hợp pháp. Tham gia tích cực và có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế của địa phương, đất nước.
(3) Thực hiện tốt quy chế phối hợp với Chính phủ và các ban, bộ, ngành, đoàn thể; tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào, các chương trình phát triển văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh ở địa phương.
(4) Vận động, động viên Cựu quân nhân tham gia các Câu lạc bộ, Ban liên lạc Cựu quân nhân, tích cực tham gia các phong trào ở cơ sở.
(5) Chủ động tham gia thực hiện chế độ, chính sách; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên và CCB. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý cho hội viên và CCB.
(6) Tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ.
(7) Tích cực tham gia hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của của Đảng, Nhà nước.
(8) Tập trung xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở Hội. Trọng tâm là xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Hội.
30 năm xây dựng và phát triển, đồng hành cùng sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Hội Cựu chiến binh Việt Nam ngày càng phát triển và không ngừng đổi mới nội dung, phương thức, hoạt động. Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, các thế hệ CCB Việt Nam tiếp tục phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, “TRUNG THÀNH – ĐOÀN KẾT – GƯƠNG MẪU – ĐỔI MỚI”, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và hoàn thành xuất sắc mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ VI đề ra; xây dựng Hội trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ và vị thế của một tổ chức chính trị – xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và tín nhiệm của nhân dân.
Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam là dịp để cán bộ, đảng viên, CCB và nhân dân cả nước ôn lại, phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế hệ CCB Việt Nam; ra sức thi đua, chào mừng Đại hội đảng các cấp và tiến tới Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng; quyết tâm thực hiện thắng lợi, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bích Nga – theo BTGTW, Hội CCBVN