Cách xử trí khi bị bỏng, bỏng lạnh
Bỏng là một tình trạng tổn thương rất phổ biến, bất kỳ ai cũng có thể mắc phải chỉ cần một sơ xuất nhỏ. Có nhiều tác nhân gây ra bỏng, chẳng hạn như bỏng do hơi nóng, bỏng do lửa, điện, hóa chất, bỏng lạnh…Tùy thuộc vào từng loại tác nhân gây bỏng và mức độ vết bỏng mà chúng ta có các cách xử lý khác nhau.
(ảnh minh họa)
Có 05 nhóm nguyên nhân chính gây bỏng, bao gồm:
– Bỏng nhiệt độ: gồm hai dạng chính:
+ Bỏng khô: do bỏng lửa, bỏng kim loại, bỏng bô xe máy hoặc bỏng tia lửa điện.
+ Bỏng ướt: do bỏng dầu mỡ, bỏng nước sôi, bỏng hơi nước, bỏng nóng do thức ăn.
– Bỏng hóa chất: bao gồm:
+ Bỏng do axit: các loại axit có thể gây bỏng chẳng hạn như axit nitric (HNO3), axit sunfuric (H2SO4), axit clohydric (HCL),…
+ Bỏng do bazơ: như KOH, NaOH, Ca(OH)2. Trong đó vôi đang tôi là một loại bỏng vừa do sức nhiệt vừa do độ bazơ.
– Bỏng điện: bị bỏng do có luồng điện dẫn truyền qua cơ thể. Bỏng điện thường do bị sét đánh hoặc điện giật, bỏng do nguồn điện sinh hoạt hoặc điện công nghiệp.
– Bỏng do các tia vật lý: đây là loại bỏng hiếm gặp trong đời sống hàng ngày, nó thường gây ra do các tia tử ngoại, tia hồng ngoại, tia X, tia phóng xạ như gama, bêta.
– Bỏng lạnh: Do Kim loại rất lạnh, ni tơ lỏng, oxy lỏng…. Cũng giống như các loại bỏng khác tiềm ẩn rất nhiều mối nguy hiểm như gây phù nề dẫn đến tổn thương tế bào, vết thương bị hoại tử đặc biệt là trong môi trường bỏng lạnh quá lâu mà không được sơ cứu chữa trị người bệnh có thể dẫn đến co giật, thân nhiệt hạ thấp dẫn đến rối loạn ý thức thậm chí là tử vong.
Da người là bộ phận đầu tiên bị tổn hại khi bị bỏng, da mỏng và nhạy cảm do vậy sẽ tổn thương rất nặng khi bỏng mà không được sơ cứu và điều trị kịp thời. Vết thương do bị bỏng có thể dẫn đến chết người hoặc để lại những di chứng nặng nề như: mất đi chức năng vận động, biến dạng cơ thể… Tình trạng cơ thể người phụ thuộc vào 3 yếu tố: Độ sâu của vết bỏng, diện tích của vết bỏng, vị trí của vết bỏng trên cơ thể.
1. Độ sâu của vết bỏng:
– Độ sâu của vết bỏng được phân thành 3 mức độ. Độ càng tăng thì mức độ tổn thương do bỏng càng nhiều. Cụ thể các cấp độ của bỏng bao gồm:
+ Cấp độ I: Bỏng bề mặt, ở cấp độ này, phần da bị tổn thương do bỏng sẽ chỉ ở lớp da ngoài cùng, làm cho vùng da này bị đỏ ửng lên và đau rát do đầu mút dây thần kinh bị kích thích. Vết thương do loại bỏng này gây ra sẽ lành hẳn chỉ sau 3 ngày.
+ Cấp độ II: Bỏng một phần da, phần da bị tổn thương do bỏng là lớp biểu bì và một phần của lớp chân bì. Bỏng độ II sẽ hình thành nên các túi phỏng nước, khi vỡ ra sẽ để lộ ra một bề mặt màu hồng và gây đau đớn cho nạn nhân. Nếu vết bỏng được giữ sạch sẽ và không bị nhiễm trùng sẽ có thể tự lành lại sau khoảng 1-4 tuần mà không cần thông qua điều trị
+ Cấp độ III: Bỏng toàn bộ các lớp da, trong trường hợp nạn nhân bị bỏng rất nặng toàn bộ các lớp da có nguy cơ cao bị phá hủy và phần cơ bị lộ ra ngoài. Bỏng cấp độ III thường rất dễ bị nhiễm khuẩn, do đó phải mất một khoảng thời gian dài để cho vết bỏng hồi phục lại và uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ, tuy nhiên vết bỏng có thể để lại sẹo.
2. Diện tích vết bỏng: Diện tích vết bỏng càng lớn càng thì nạn nhân bị nguy hiểm càng cao, đặc biệt nếu bị bỏng ở cấp độ 2, 3 diện tích bỏng lớn dễ có nguy cơ dẫn đến tử vong nếu không kịp thời cấp cứu.
3. Vị trí của vết bỏng trên cơ thể: Mỗi vị trí của vết bỏng đều có ý nghĩa rất lớn đối với tính mạng và quá trình hồi phục của nạn nhân, chẳng hạn như:
– Bỏng ở mắt có thể gây mù lòa;
– Bỏng ở vùng mặt gây ra phù nề chèn ép đường thở, dễ bị biến dạng mặt và để lại sẹo xấu;
– Bỏng ở bàn tay hoặc vùng các khớp có thể dẫn tới có cứng, giảm hoặc làm mất chức năng hoạt động;
– Bỏng ở vùng lưng, vùng gần hậu môn sinh dục hoặc vùng hậu môn sing dục có nguy cơ cao bị nhiễm khuẩn, thời gian hồi phục tổn thương rất lâu;
– Nếu hít phải khói hoặc hơi nóng có thể bị bỏng đường hô hấp, dẫn tới tình trạng phù nề đường hô hấp, gây tắc nghẽn, nạn nhân bị suy hô hấp và rất dễ bị viêm phổi;
Mục đích của việc sơ cứu bỏng là làm giảm tổn thương tổ chức và hạn chế thấp nhất tiến triển của vết bỏng bằng sự hạn chế sinh ra các yếu tố trung gian gây viêm. Nếu vết bỏng không được sơ cứu kịp thời và đúng cách có thể gây ra những hệ lụy nghiêm trọng tới sức khỏe, để lại hậu quả vô cùng đáng tiếc cho nạn nhân sau này. Do đó dù nạn nhân bị bỏng nhẹ hay nặng thì việc sơ cứu là rất cần thiết. Bởi vì nhiều trường hợp không sơ cứu kịp thời hoặc xử lý sai vết bỏng nên đã để lại những hậu quả đáng tiếc.
* Quy trình sơ cứu nạn nhân bị bỏng:
Bước 1: Nhanh chóng loại bỏ tác nhân gây bỏng theo nguyên tắc cách ly nạn nhân với nguồn nhiệt. Loại trừ tiếp xúc với tác nhân gây bỏng càng sớm càng tốt. Cụ thể:
– Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo bằng cách dùng nước hoặc có thể dùng áo, chăn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa;
– Xé bỏ quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh dội vào vùng bỏng;
– Đối với bỏng điện thì phải ngắt ngay nguồn điện hay tách nạn nhân ra khỏi nguồn điện;
– Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng, nhẫn, đồng hồ… trước khi vết bỏng sưng nề.
Bước 2: Nhanh chóng làm mát vùng bị tổn thương, thường dùng nước mát (đây là biện pháp đơn giản, hiệu quả). Thao tác này phải tiến hành ngay sau khi bị bỏng, càng sớm càng tốt, sau 30 phút mới làm thì không hiệu quả.
– Sử dụng nước sạch, nhiệt độ nước tiêu chuẩn là từ 16 ÷ 20oC, để ngâm và rửa vùng tổn thương. Tận dụng các nguồn nước sẵn có như nước đun sôi để nguội, nước máy, nước mưa, nước giếng… Có thể ngâm, rửa phần bị bỏng dưới vòi nước hay trong chậu nước mát hoặc dội liên tục nước sạch lên vùng bỏng hoặc đắp thay đổi bằng khăn ướt. Nếu bỏng hóa chất thì phải rửa các hóa chất bằng nước và chất trung hòa (lưu ý các hóa chất kỵ nước).
Hình ảnh: Rửa vết bỏng bằng nước
– Thời gian ngâm rửa từ 15 ÷ 45 phút (thường cho tới khi hết đau rát), tránh làm vỡ, trượt vòm nốt bỏng.
– Giữ ấm phần cơ thể không bị bỏng, đặc biệt với trẻ em, người già. Khi trời lạnh nên rút ngắn thời gian ngâm đề phòng nhiễm lạnh.
Chú ý:
– Không dùng đá, nước đá lạnh để làm mát vết bỏng.
– Không ngâm toàn bộ cơ thể nạn nhân vào trong nước.
– Không đắp các loại thuốc mỡ, lá cây… vào vùng bị bỏng khi chưa rửa sạch.
– Rửa nước lạnh cũng làm tăng sự mất nhiệt, thân nhiệt tiếp tục giảm, gây sốc nặng thêm.
Bước 3: Phòng chống sốc.
– Đặt nạn nhân ở tư thế nằm;
– Động viên, an ủi nạn nhân;
– Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa.
Chú ý:
– Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác.
– Dung dịch cho uống: Nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn nhân uống:
– Pha 1 lít nước:
+ 1/2 thìa cà phê muối ăn;
+ 1/2 thìa cà phê muối Natri Bicarbonat (NaHCO3);
+ 2 ÷ 3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép.
– Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc Oreson.
– Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân. Khi dùng thuốc giảm đau, phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.
Bước 4: Duy trì đường hô hấp.
Nạn nhân bị bỏng ở vùng mặt, cổ, nhất là khi bị mắc kẹt trong khu vực có dầu, đồ đạc, bàn ghế… đang bốc cháy, sẽ nhanh chóng bị phù mặt, cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường hợp này phải được ưu tiên số một và phải được chuyển đến bệnh viện ngay. Nhưng trong khi chờ đợi, phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát đường hô hấp, hỗ trợ nạn nhân khi nạn nhân khó thở.
Bước 5: Phòng chống nhiễm khuẩn.
– Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy, khi cấp cứu bỏng phải rất cẩn thận để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn: Không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp vào vết bỏng. Nếu có điều kiện, người cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.
Bước 6: Băng vết bỏng.
– Không được bôi dầu mỡ, dung dịch cồn, kể cả kem kháng sinh vào vết bỏng.
– Không được chọc phá các túi phỏng nước.
– Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng.
– Nếu có điều kiện thì phủ vùng bỏng bằng gạc, vải (loại không có lông tơ) vô khuẩn, nếu không có thì dùng gạc, vải càng sạch càng tốt.
– Vết bỏng sẽ chảy ra nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng. Nếu không có băng co giãn thì chỉ được băng lỏng vùng bỏng để đề phòng vết bỏng sưng nề gây chèn ép.
Bước 7: Chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Cần lưu ý và sơ cứu những tổn thương phối hợp (cố định chi gãy; cố định cột sống, cổ nếu nghi ngờ có chấn thương cột sống, cổ…).
* Xử trí khi bị bỏng lạnh
Khi bị bỏng lạnh, chúng ta cần nhanh chóng thực hiện theo những bước sơ cứu dưới đây:
– Ngay khi phát hiện có người bị bỏng lạnh cần nhanh chóng đưa bệnh nhân đến nơi ấm áp để loại bỏ nguy cơ hạ thân nhiệt, từ đó kích thích cơ thể tự điều chỉnh, ủ ấm hoặc làm ấm bệnh nhân.
– Nếu quần áo của bệnh nhân bị ướt, ngay lập tức hãy cởi bỏ chúng ra vì nếu để bệnh nhân sẽ tiếp tục bị nhiễm lạnh, nhiệt độ cơ thể chắc chắn không thể tăng lên.
– Để bệnh nhân bất động hoặc băng kín nhằm ngăn chặn tổn thương thêm do các tinh thể nước đá di chuyển gây tổn hại mô.
– Ngâm các tổn thương trong nước ấm 40 – 42 độ C. Cần lưu ý, không được cho bệnh nhân tiếp xúc với lửa hay lò sưởi, vì có thể dẫn tới tổn thương nặng nề hơn. Trong thời gian đó, nhanh chóng di chuyển bệnh nhân tới cơ sở y tế gần nhất để được chăm sóc điều trị.
Vậy Bỏng là một tình trạng tổn thương rất phổ biến, bất kỳ ai cũng có thể mắc phải, nhất là trẻ nhỏ. Tuy nhiên, để phòng tránh tai nạn bỏng hiệu quả nhất thì việc nâng cao ý thức “phòng bệnh hơn chữa bệnh” từ mỗi cá nhân, mỗi gia đình là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng cơ bản trong việc sơ cứu, xử lý vết bỏng đúng cách nhằm tránh để lại những hậu quả đáng tiếc không may xảy ra.
Trên đây là cách sơ cứu bỏng, bỏng lạnh nhanh và hiệu quả mà mọi người nên biết để có thể bảo vệ cho bản thân, gia đình và những người xung quanh. Chúc các bạn luôn khỏe mạnh, và có ý thức phòng tránh các tai nạn bỏng đáng tiếc này.
Nguyễn Học