A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Từ bí danh đến vị tướng huyền thoại

 

7033302020121112140807653

Hình ảnh tướng “TÊ ĐƠ” tận tụy với công việc (thứ 3 từ trái sang)


Trong cuộc đời hoạt động cách mạng tô thắm nên trang sử vàng son hào hùng của dân tộc Việt Nam rất nỗi bi tráng. Đã xuất hiện những con người anh hùng. Đó là những vị tướng với những bí danh như: anh Văn(Võ Nguyễn Giáp), Sáu Vi(Nguyễn Chí Thanh)… Dưới đây là câu chuyện về một vi tướng mang bí danh Tê Đơ.

Ông tên thật là Phạm Quang Khanh sinh ngày 10/01/1910 là con cụ Phạm Quang Dinh (họ Phạm gốc Mạc; phái hệ Mạc Đăng Dinh) và bà Võ Thị Vàng trú tại xã An Phú (nay là xã Tịnh Minh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi) nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, Tư lệnh kiêm chính ủy Công an nhân dân vũ trang, Ủy viên đoàn Chủ tịch mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu quốc hội khóa III và IV, một học trò xuất sắc của Bác Hồ, một vị tướng huyền thoại, một con người tận trung với nước, chí hiếu với nhân dân; một bài học lớn và đẹp đẽ vô ngần về đức tính cương trực dám nhìn thẳng vào sự thật, nói lên sự thật; vì đại nghĩa dân tộc; hạnh phúc của nhân dân, không một chút ngần ngại và dũng cảm đương đầu với sự thật.

Tê Đơ sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng rất giàu nghĩa khí anh hùng. Mẹ tham gia phong trào Văn thân chống Pháp. Bốn anh em điều tham gia hoạt động bí mật cho cách mạng và đều bị tù đày nhưng không khuất phục kẻ thù. Tê Đơ năm lên 15 tuổi (1925) đã tham gia cách mạng tại quê hương. Năm 19 tuổi (1929) tham gia vào tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Ngày 17/01/1931, Tê Đơ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay Đảng Cộng sản Việt Nam), huyện ủy viên phụ trách Công hội Đỏ và chỉ huy Đội du kích tư vệ xã. Do tham gia hoạt động tuyên truyền và hưởng ứng phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh nên bị thực dân Pháp bắt giam qua các nhà lao ở Quảng Ngãi rồi đày lên nhà tù Buôn Ma Thuột (Đăk Lắk) và bị kết án tử hình. Nhưng sau đó được giảm án xuống chung thân, cùng giam chung với các chí sỹ cách mạng lỗi lạc của dân tộc như Nguyễn Chí Thanh, Lê Tất Đắc… Tại nơi đây chính Tê Đơ – là người đã lập kế hoạch cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh bỏ trốn. Sau đó bị địch phát hiện và tra tấn, đánh đập rất dã man, thập tử nhất sinh, nhưng khi tỉnh dậy Tê Đơ vẫn bình thản nói với đồng chí của mình rằng: “Thà mình chết, đừng để cho Đảng bị thiệt hại”.

Sau năm 1940, đảng Cánh tả ở Pháp dành thắng lợi thì năm 1943 Tê Đơ được đưa về quản thúc tại căng an trí Ba Tơ (Quảng Ngãi) nhằm cô lập và cách ly người cộng sản với quần chúng nhân dân, giết mòn trong lao động khổ sai và bệnh tật. Tại đây Tê Đơ hóa trang trong vai trò là “người chăn vịt” để làm liên lạc với các đồng chí cách mạng, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, sâu rộng trong nhân dân và trong binh lính địch; lập căn cứ địa và xây dựng lực lượng vũ trang; khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

Sau ngày 09/3/1945 xảy ra sự kiện Nhật đảo chính Pháp, Tê Đơ được sự phân công của Tỉnh ủy Quảng Ngãi lâm thời đã trở thành người Chỉ huy trưởng làm nên thắng lợi cuộc khởi nghĩa Ba Tơ. Tê Đơ trở thành Đội trưởng chỉ huy Đội du kích anh hùng, làm nồng cốt cho nhân dân Quảng Ngãi vùng lên tổng khởi nghĩa vào ngày 14/8/1945 là một trong số ít địa phương cướp được chính quyền về tay nhân dân sớm nhất trong cả nước.

Năm 1950, được gọi ra chiến khu Việt Bắc để đi nước ngoài bồi dưỡng quân sự. Tê Đơ được gặp Đại tướng Nguyễn Chí Thanh xin đề nghị ở lại học hỏi kinh nghiệm, chiến đấu rồi đi học sau. Theo lời kể của tướng Tê Đơ với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh lúc đó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN vào năm 1950 về sự ra đời của bí danh Tê Đơ: “ Tụi Nhật hãi hùng, truy lùng đội du kích Ba Tơ bọn tôi dữ lắm. Trước khi chuyển hướng về hoạt động ở đồng bằng, anh Nguyễn Chánh, Tư lệnh quân khu 5 lúc bây giờ quyết định mọi người phải dung mật danh. Lấy số gốc 200. Anh Chánh là 201, tôi 202, các anh em khác lấy thứ tự tiếp theo. Tôi đề nghị tôi có chữ cái cuối cùng là T, ghép T với số 2 thành Tê Đơ cho dễ gọi”  Vậy là từ đó các anh em và  mọi người đã  làm nên một vị tướng huyền thoại mang tên Tơ Đê làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, đồng bào, đồng chí ở liên khu 5 đã góp phần làm nên trang sử hào hùng của dân tộc.

Từ năm 1952 – 1959, Tê Đơ được bố trí làm cục phó rồi cục trưởng Cục bảo vệ, Bí thư Đảng ủy Tổng cục chính trị. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tê Đơ được Đại tướng Võ Nguyên Giáp cử đi kiểm tra công tác chuẩn bị chiến trường Đông bắc. Tê Đơ đã đến trận địa pháo dã chiến tại một địa bàn tương đối bằng phẳng mà trong hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết trong thư:

“Lúc bấy giờ toàn quân đang nô nức thực hiện quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong 3 ngày 2 đêm. Sau này mới biết có cán bộ lo ngại, nhưng khi đó không một ai nói lên ý nghĩ thật của mình vì ngại cho là dao động. Tôi đánh giá rất cao ý kiến của anh Phạm Kiệt, ý kiến ấy cùng với những tin tức trinh sát từ nhiều mặt gửi về đã cung cấp cho tôi căn cứ quan trọng để đề ra với Đảng ủy thay đổi phương châm tác chiến, rút quân ra, chuyển sang kế hoạch mới “đánh chắc, tiến chắc”. Tôi càng thấy rõ anh Kiệt là một cán bộ có trình độ chính trị và quân sự, có tinh thần kiên định, lại có bản lĩnh vì nghĩa lớn, nói lên sự thật không chút ngần ngại. Anh đã để lại cho chúng ta một tấm gương về đức tính, về bản lĩnh của người đảng viên cộng sản”.

Tháng 8/1960, Tê Đơ được Bác Hồ và Trung ương cử làm Thứ trưởng Bộ Công an. Tháng 4/1961, Tê Đơ được phong hàm Thiếu tướng và được giao làm Tư lệnh kiêm chính ủy một tổ chức mới ra đời, còn non trẻ đó chính là lực lượng Công an vũ trang. Trước trọng trách nặng nề, Tê Đơ càng ghi sâu những lời Bác dạy: “Làm cán bộ phải dĩ công vi thượng, cần, kiệm, liêm, chính. Đạo làm tướng phải nhân, nghĩa, dũng, chí, tín…” Tê Đơ luôn khiêm tốn, chân tình, đoàn kết chặt chẽ trong nội bộ Công an, điềm tĩnh, dân chủ và chịu khó lắng nghe ý kiến của cấp dưới; luôn theo sát vào các vấn đề của thực tiễn để hoàn thành bảo đảm công tác an ninh và trận tự an toàn xã hội; bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não của đảng, chính phủ và những chuyến công tác đặc biệt.

Ông tập trung xây dựng, củng cố vững mạnh hệ thống tổ chức an ninh biên giới, sông biển, hải đảo. Nhờ đó thời kỳ phá hoại của đế quốc Mỹ vào Việt Nam về hoạt động biệt kích, tình báo… đều bị tóm gọn. Năm 1963 – 1964 được trên chấp nhận, Tê Đơ chuyển chọn con em miền Nam vào Công an nhân dân vũ trang, mở trường đào tạo chiến sỹ an ninh cho miền Nam. Cả cuộc đời ông có một thời gian biểu sắp xếp 1/3 để đi công tác cơ sở, đặc biệt là đi những đơn vị, những địa bàn xa xôi, gian khó nhất. Năm 1967 bất kể trong mưa bom bão đạn ông vẫn đến thăm các đơn vị xa xôi như đội nữ dân quân anh hùng (Ngư Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) . Mùa đông năm 1968 Tê Đơ đi hàng tháng trong thời tiết lạnh buốt; kiểm tra các đồn biên phòng từ Lai Châu, Lào Cai, Quảng Ninh.

Ông là con người suốt đời tận tụy chăm lo cho từng giấc ngủ của cán bộ chiến sỹ và căm ghét những thói hư tật xấu như rượu chè, nhũng nhiễu với nhân dân. Ông dồn hết mọi tâm tư tình cảm và tình yêu thương chăm lo cho biên giới hải đảo để mỗi cán bộ, chiến sỹ yên tâm, phấn khởi “Đất là nhà, biên giới quê hương”.

Mùa hè năm 1973 dấu căn bệnh ung thư của ông lên cơ đau dữ dội. Nhưng Tê Đơ vẫn tiếp tục tháp tùng đồng chí Phạm Văn Đồng, chủ tịch Fidel Castro (Cu Ba) đi thăm chiến trường Quảng Trị và đường Hồ Chí Minh. Tê Đơ là một con người sống rất giản dị, trong sáng, rất ít quan tâm đến các lợi ích vật chất cho cá nhân.

Tháng 1/1974, Tê Đơ được thăng cấp Trung tướng. Tê Đơ thường hóm hỉnh nói: “Đất nước độc lập, tự do là sướng lắm rồi! Ngày xưa để chuẩn bị ăn tết, mình gánh nồi đất đi khắp nơi mà vẫn không bán được. Ăn tết rất buồn”. Nghe tin ông ốm Chủ tịch Tôn Đức Thắng đến thăm và hỏi có gì dặn lại không? Nước mắt ông trào hai khóe mắt, Tê Đơ trả lời: “Thưa bác, tôi chưa làm được gì nhiều cho lực lượng Công an nhân dân vũ trang. Mong các đồng chí giúp đỡ anh em trưởng thành vững mạnh. Tôi chỉ tiếc là chưa được về thăm bà con, đồng bào đồng chí miền Nam”.

13 giờ ngày 23 tháng 01 năm 1975, trái tim giàu chất sử thi anh hùng và nhân hậu đã ngừng đập. Người đó chính là Trung tướng Phạm Kiệt – vị tướng huyền thoại của nhân dân.


Văn Ngọ – Phòng Cảnh sát PCCC&CN,CH