A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Cần thiết phải ban hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Bộ Công an trình Chính phủ báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội đưa dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 và thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIV.

Đây là việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, căn cứ các quy định của pháp luật, trên cơ sở khoa học và thực tiễn xác định công tác giữ gìn trật tự, an toàn giao thông là một nội dung của công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Phải xác định đúng chức năng, nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông phù hợp với tổ chức bộ máy hành chính trong giai đoạn hiện nay để bảo đảm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, nội dung quản lý nhà nước về an ninh, trật tự. Vì vậy, phải hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đồng thời điều chỉnh hai lĩnh vực khác nhau là: Trật tự, an toàn giao thông đường bộ (thuộc lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội) và xây dựng, phát triển, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, quản lý vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ (thuộc lĩnh vực kinh tế – kỹ thuật), đây là hai lĩnh vực rất lớn và khác nhau nhưng lại được điều chỉnh trong cùng một đạo luật dẫn đến không thể quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng nhiều nội dung quan trọng thuộc cả hai lĩnh vực, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cụ thể:

(1) Quy tắc giao thông còn thiếu, chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng và sát thực tiễn, như: Thiếu quy định phải dừng lại quan sát trước khi nhập từ đường nhánh vào đường chính. Chưa quy định hoặc quy định không cụ thể, không đầy đủ về quy tắc ưu tiên “rẽ phải – đi thẳng – rẽ trái”; dừng, đỗ xe; nhường đường cho các xe đi cùng chiều phía sau, khi chuyển hướng; thiếu chú ý quan sát…Thiếu các khái niệm liên quan đến an toàn giao thông, như: ùn, tắc, đi theo làn, chuyển làn, chuyển hướng…dẫn đến khó khăn về nhận thức, thực hiện và áp dụng pháp luật.

(2) Quy định về quản lý an toàn phương tiện và người điều khiển phương tiện còn thiếu và bất cập, như: Chưa có cơ chế quản lý quá trình chấp hành pháp luật của người điều khiển phương tiện sau khi được cấp giấy phép lái xe; chưa có các chính sách, kế hoạch cụ thể về phát triển phương tiện để đảm bảo đồng bộ với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế – xã hội Việt Nam; chưa có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp mua, bán, cho, tặng xe nhưng không làm thủ tục chuyển quyền sở hữu; chưa gắn trách nhiệm của chủ phương tiện đối với việc đảm bảo an toàn kỹ thuật của phương tiện giữa 2 kỳ kiểm định…dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý.

(3) Chưa quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông, như: tổ chức chỉ huy điều khiển giao thông, phòng ngừa, giải quyết tai nạn giao thông, về quản lý, sử dụng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, ứng dụng khoa học công nghệ …

(4) Chưa quy định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng về biện pháp, trách nhiệm giải quyết tai nạn giao thông đường bộ của cơ quan Công an, Y tế, Bảo hiểm, cơ quan khai thác, bảo trì đường bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Một số vấn đề mới về ứng dụng khoa học công nghệ nhưng Luật chưa điều chỉnh như việc xem xét các thiết bị giám sát hành trình trên phương tiện, cũng như các camera giám sát giao thông và hình ảnh thu thập được từ các nguồn khác làm tài liệu bổ sung, hỗ trợ cho việc giải quyết tai nạn giao thông.

(5) Luật có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, các quy định phải chấp hành nhưng thiếu các biện pháp cưỡng chế hiệu quả.

(6) Các quy định về đầu tư, xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 còn rất thiếu và chủ yếu chịu sự điều chỉnh của nhiều luật khác có liên quan, như: Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Đô thị, Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng…do đó việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng giao thông đường bộ còn hạn chế so với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

(7) Để tổ chức thực hiện Luật, phải ban hành nhiều văn bản dưới luật (164 văn bản), đến nay đã có những văn bản hết hiệu lực, có nhiều văn bản phải sửa đổi, bổ sung, thay thế thường xuyên (như các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính) và còn một số văn bản chưa ban hành được, thể hiện thiếu tính ổn định, không tập trung, thống nhất.

(8) Trong Luật, việc xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính, cơ quan chịu trách nhiệm phối hợp và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ chưa rõ ràng, rành mạch dẫn đến chồng chéo khi tổ chức thực hiện, làm tăng tổ chức bộ máy và tăng biên chế, giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trên thực tế, Công an là lực lượng trực tiếp, thường xuyên thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và phân tích, thống kê, tổng hợp, báo cáo tình hình, số liệu về trật tự, an toàn giao thông.

Ý thức chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông của nhiều người tham gia giao thông còn rất kém; vi phạm trật tự, an toàn giao thông vẫn diễn ra phổ biến; tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông và chống người thi hành công vụ diễn biến hết sức phức tạp. Theo thống kê, nguyên nhân gây tai nạn giao thông đường bộ do lỗi vi phạm của người tham gia giao thông là chủ yếu chiếm trên 90% số vụ; do an toàn kỹ thuật phương tiện và công trình giao thông đường bộ chỉ chiếm gần 10% số vụ.

Các vấn đề về an ninh như biểu tình trái pháp luật, tụ tập đông người và nhiều loại tội phạm diễn biến hết sức phức tạp trên các tuyến giao thông đường bộ, đã phát hiện, bắt và bàn giao cho các cơ quan chức năng xử lý theo thẩm quyền 5.228 đối tượng phạm pháp hình sự. Dự báo trong thời gian tới, khủng bố, biểu tình trái pháp luật, lợi dụng hoạt động giao thông để gây rối an ninh, trật tự và phạm tội có nguy cơ thường trực trên các tuyến giao thông đường bộ.

Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới, như: Campuchia, Lào, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Nga, Australia…thì các nội dung liên quan đến bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ được quy định trong đạo luật riêng, tách bạch với đạo luật về xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và quản lý kinh doanh vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ. Theo đó, vấn đề phát triển hạ tầng phải có cơ chế riêng để thu hút nguồn lực đầu tư, vấn đề trật tự, an toàn giao thông phải có đạo luật chuyên sâu điều chỉnh. Kinh nghiệm của các nước nêu trên hoàn toàn có thể áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Từ những phân tích ở trên cho thấy Luật Giao thông đường bộ năm 2008 hiện nay không thể giải quyết có hiệu quả đồng thời cả hai vấn đề lớn là trật tự, an toàn giao thông đường bộ và xây dựng, phát triển, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, vận tải đường bộ, do đó phải xây dựng Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ tách bạch với Luật Giao thông vận tải đường bộ để điều chỉnh chuyên sâu, đủ sức giải quyết có hiệu quả những vấn đề cấp bách thực tiễn đang đặt ra đối với cả hai lĩnh vực.

Về phạm vi điều chỉnh, Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ điều chỉnh các nhóm vấn đề cơ bản, gồm: (1) Quy tắc giao thông đường bộ, hệ thống báo hiệu đường bộ, tốc độ và khoảng cách giữa các xe; (2) Quản lý về an toàn phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông; (3) Tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ; (4) Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ; (5) Thực thi pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Theo đó, phạm vi điều chỉnh của Luật chỉ quy định những vấn đề về trật tự, an toàn giao thông (an toàn động), không quy định những nội dung thuộc về kỹ thuật an toàn giao thông. Trong đó, chuyển và sửa đổi 03 chương của Luật Giao thông đường bộ năm 2008, gồm: (1) Quy tắc giao thông; (2) Phương tiện tham gia giao thông; (3) Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông. Bổ sung các chế định mới, gồm: (1) Tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ; (2) Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ; (3) Thực thi pháp luật (tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; ứng dụng khoa học công nghệ trong điều khiển, giám sát giao thông; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật) và trách nhiệm pháp lý của người tham gia giao thông, chủ phương tiện, người thi hành công vụ, cơ quan, tổ chức khác có liên quan khi vi phạm. Luật hóa nhiều quy định đang tồn tại ở các văn bản dưới luật để bổ sung vào các nội dung trên. Luật Giao thông vận tải đường bộ do Bộ Giao thông vận tải soạn thảo sẽ điều chỉnh các quy định về: xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; vận tải đường bộ, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ; quản lý hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ.

Như vậy, phạm vi điều chỉnh như trên của 02 Luật rõ ràng không trùng nhau và đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn cần giải quyết hiện nay đang đặt ra như đã phân tích ở phần trên. Việc phân công trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về pháp luật tổ chức bộ máy và sẽ do Chính phủ quy định, bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả, sự phù hợp và có tính khả thi.

Về đối tượng điều chỉnh, Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người tham gia giao thông, bảo đảm cho việc đi lại của người dân trong trạng thái trật tự và an toàn. Luật Giao thông vận tải đường bộ chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương trong việc huy động các nguồn lực đầu tư, xây dựng, phát triển, quản lý hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, kết nối hạ tầng đường bộ với hạ tầng đường sắt, đường thủy nội địa, đường hàng không và hàng hải; giữa nhà nước với các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh vận tải đường bộ, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ.

Bộ Công an trình Chính phủ báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội đưa dự án Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 và thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIV. Luật được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 sẽ sớm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ giai đoạn 2016-2020, phù hợp với yêu cầu cấp bách của tình hình thực tiễn hiện nay, đồng thời, Luật sẽ có hiệu lực cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021-2026).

Theo csgt