A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Hoàn thiện Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ góp phần xây dựng văn hóa giao thông

Trật tự an toàn giao thông đường bộ là một trong những yếu tố quan trọng để bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Trật tự an toàn giao thông đường bộ cũng là bộ mặt của xã hội, thể hiện sự văn minh, ý thức và trách nhiệm của người tham gia giao thông. Tuy nhiên, thực trạng trật tự an toàn giao thông đường bộ ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc và tiềm ẩn nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông tai nạn giao thông, gây thiệt hại lớn về người và của, ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống và tâm lý của người dân.

Theo thống kê tính chung 6 tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 4.970 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 3.603 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.367 vụ va chạm giao thông, làm 2.865 người chết, 2.009 người bị thương và 1.462 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 6 tháng đầu năm nay giảm 12,9% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 9,8%; số vụ va chạm giao thông giảm 20,1%); số người chết giảm 13,5%; số người bị thương tăng 2,3% và số người bị thương nhẹ giảm 15,3%. Đây là con số rất lớn, cho thấy mức độ nghiêm trọng của tình hình tai nạn giao thông ở nước ta.

Vụ tai nạn giao thông trên cao tốc Nha Trang - Cam Lâm làm 2 người chết tại chỗ, 6 người bị thương

Nguyên nhân chủ yếu gây ra tai nạn giao thông là do vi phạm quy tắc giao thông của người tham gia giao thông, chiếm tỷ lệ cao nhất là do điều khiển xe không đúng quy định; không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, đèn tín hiệu giao thông; lấn làn, vượt ẩu; không giữ khoảng cách an toàn; điều khiển xe ở tốc độ cao; sử dụng rượu bia, ma túy khi lái xe; không đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy… Ngoài ra, còn có những nguyên nhân khách quan như: Tình trạng quá tải của hạ tầng giao thông; chất lượng công trình giao thông không đảm bảo; thiếu sót trong công tác quản lý nhà nước về giao thông; thiếu sót trong công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm…

Ở Việt Nam, hoạt động giao thông đường bộ chiếm tỷ lệ trên 90% các loại hình tham gia giao thông và loại hình vận tải. Phương tiện giao thông đường bộ tăng nhanh, bình quân từ 10-15%/năm và thực trạng tham gia giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay là giao thông hỗn hợp với rất nhiều loại phương tiện giao thông cơ giới, thô sơ, xe 3 bánh. Từ năm 2008 đến nay, phương tiện giao thông tăng nhanh, chủ yếu là các phương tiện cá nhân, toàn quốc đã đăng ký hơn 4,6 triệu xe ô tô (gấp 5,45 lần so với từ năm 2008 trở về trước), gần 50 triệu xe mô tô (gấp 2,92 lần so với từ năm 2008 trở về trước); trong khi Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chưa có các chính sách, biện pháp, quy định cụ thể về phát triển phương tiện để đảm bảo đồng bộ với sự phát triển của cơ sở hạ tầng (cả đường sá và điểm đỗ xe), điều kiện kinh tế-xã hội Việt Nam.

Thời điểm ban hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008 trong bối cảnh giao thông nước ta chủ yếu là mô tô, xe máy, hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ còn hạn chế. Nay nước ta đã đứng thứ 4 trong khối ASEAN về lượng tiêu thụ ô tô mới, đồng thời xuất hiện nhiều loại nhiên liệu mới... Trong khi đó, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chưa có các quy định để quản lý, kiểm soát sự gia tăng của phương tiện, nhất là yêu cầu kiểm soát đảm bảo sự phù hợp, tương xứng với tốc độ phát triển về cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, từ đó dẫn đến hệ quả là mất TTATGT trên các tuyến giao thông đường bộ và ùn tắc giao thông đã diễn ra nghiêm trọng tại các đô thị lớn. Bên cạnh đó, thực tế hiện nay cho thấy đang không thể kiểm soát được tốc độ gia tăng phương tiện giao thông đường bộ, cơ cấu, chủng loại phương tiện, chưa kiềm chế được tốc độ phát triển phương tiện giao thông cá nhân và chưa có cơ chế bảo đảm cho việc phát triển phương tiện giao thông.

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 là một đạo luật chuyên biệt và phức hợp, không chỉ bao trùm lĩnh vực TTATGT, mà còn bao gồm cả các quy định về lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông, phương tiện tham gia giao thông, vận tải đường bộ và quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Vì phạm vi điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quá bao trùm lên nhiều lĩnh vực rộng lớn, đương nhiên sẽ không thể đầy đủ, cụ thể và chi tiết đối với những quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

Do một đạo luật cùng lúc điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau, dẫn đến các quy định của luật hoặc chỉ phù hợp áp dụng cho lĩnh vực này, hoặc là chỉ phù hợp áp dụng cho lĩnh vực khác. Trong nhiều trường hợp đã gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc lựa chọn các quy định phù hợp để áp dụng thi hành. Mặt khác, do được quy định trong cùng một đạo luật nên việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chức năng chưa đúng, chưa rõ ràng, rành mạch, dẫn đến sự chồng chéo, bỏ trống chức năng, nhiệm vụ trong quá trình thực hiện, không có bộ, ngành nào chịu trách nhiệm chính. Nhiều nội dung của luật này còn quy định chung, lồng ghép nên không có hiệu lực trực tiếp. Muốn triển khai thực hiện được thì phải ban hành nhiều văn bản dưới luật như các nghị định, thông tư... để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Điển hình như, tại Khoản 2, Điều 37, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định Bộ trưởng Bộ GTVT chịu trách nhiệm tổ chức giao thông trên hệ thống quốc lộ; Chủ tịch UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức giao thông trên các hệ thống đường bộ thuộc phạm vi quản lý. Như vậy, không có quy định nào về trách nhiệm tham gia tổ chức giao thông cho lực lượng Cảnh sát giao thông, trong khi đây mới là lực lượng chủ yếu thực hiện việc chỉ huy điều khiển giao thông và xử lý vi phạm hành chính về giao thông đường bộ. Đây chính là “lỗ hổng” của luật, gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ.

Thực tiễn cho thấy có nhiều loại tội phạm xảy ra trên đường mà lực lượng Cảnh sát giao thông phải đấu tranh ngăn chặn. Thế nhưng, cho đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao quy định cụ thể về phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Cảnh sát giao thông trong công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên đường bộ. Mặt khác, lực lượng Cảnh sát giao thông có thẩm quyền trong việc tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm, khám nghiệm, điều tra giải quyết tai nạn giao thông nhưng các ý kiến tham gia thường không được các ngành hữu quan tiếp thu, giải quyết, khắc phục.

Những hạn chế, bất cập trong luật hiện hành tồn tại ở cả 4 lĩnh vực, gồm: kết cấu hạ tầng giao thông; TTATGT; vận tải đường bộ; phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước. Quy tắc giao thông ở nước ta chủ yếu là “nội luật hóa” Công ước Vienna năm 1968 về giao thông đường bộ nhưng việc cụ thể hóa trong luật hiện hành chưa rõ, chưa đầy đủ và sát thực tiễn tình hình giao thông tại Việt Nam. Chẳng hạn như không quy định hoặc quy định không cụ thể, không đầy đủ về các nội dung như: Nơi cho phép chuyển làn đường; độ tuổi người điều khiển xe đạp điện, xe máy điện; cấm lùi xe trên đường một chiều hoặc đường đặt biển cấm đi ngược chiều; nồng độ cồn đối với người điều khiển phương tiện giao thông thô sơ...

Ngoài ra, luật không quy định đầy đủ, cụ thể về các chế định bảo đảm TTATGT liên quan như: Giải quyết tai nạn giao thông; tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông, giải quyết ùn tắc giao thông, giải quyết các vấn đề ANTT, sự kiện trên các tuyến giao thông; cưỡng chế chấp hành pháp luật về TTATGT... Việc quản lý người lái xe chưa gắn với quản lý vi phạm của người tham gia giao thông. Trong nhiều vụ tai nạn giao thông, trách nhiệm chủ yếu thuộc về người lái xe gây tai nạn mà chưa gắn trách nhiệm của các cơ quan đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe. Chưa có chính sách cụ thể, rõ ràng về quản lý, sử dụng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm TTATgiao thông đường bộ, trung tâm chỉ huy, điều khiển giao thông và chưa xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác này, dẫn đến đầu tư ứng dụng công nghệ thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Quy định về nâng cao chất lượng an toàn kỹ thuật phương tiện giao thông và bảo vệ môi trường chưa đáp ứng tình hình mới, xu thế chuyển dịch phương tiện giao thông thông minh, động cơ điện.

Sau hơn 13 năm thực hiện, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế, không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, do thực tiễn đã có nhiều vận động, thay đổi, đòi hỏi tất yếu khách quan phải ban hành những đạo luật mới thay thế, điều chỉnh từng lĩnh vực về hạ tầng, vận tải và trật tự, an toàn giao thông.

Để khắc phục những bất cập và vấn đề trên, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội; cần có những chính sách và biện pháp hiệu quả để quản lý và điều hành giao thông đường bộ theo đúng quy luật và tiêu chuẩn khoa học. Trong đó, việc xây dựng và hoàn thiện Luật Trật tự An toàn giao thông đường bộ (sau đây gọi là Luật) là một nhiệm vụ cấp thiết và ý nghĩa, nhằm tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để quản lý, điều hành và giải quyết các vấn đề trật tự an toàn giao thông đường bộ theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Xây dựng và hoàn thiện Luật không chỉ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về giao thông đường bộ, mà còn góp phần xây dựng văn hóa giao thông. Văn hóa giao thông là ý thức, là thái độ của mọi người trong khi giao thông, là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Văn hóa giao thông không chỉ ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông đường bộ mà còn ảnh hưởng đến sự hòa nhập và hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Việc hoàn thiện Luật sẽ tạo ra một khung pháp lý rõ ràng, khoa học và hiện đại cho việc quản lý và điều hành giao thông đường bộ, từ đó nâng cao ý thức và trách nhiệm của người tham gia giao thông, giảm thiểu vi phạm và tai nạn giao thông, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và cuộc sống của nhân dân. Việc hoàn thiện Luật cũng sẽ khuyến khích sự sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ vào lĩnh vực giao thông đường bộ, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của giao thông đường bộ, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Qua đó, góp phần thực hiện tốt các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là Công ước giao thông đường bộ và Công ước về biển báo và tín hiệu đường bộ năm 1968 (Công ước Viên 1968), nhằm hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững.

Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện Luật là một nhiệm vụ cấp thiết và ý nghĩa, nhằm tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để quản lý, điều hành và giải quyết các vấn đề trật tự an toàn giao thông đường bộ theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây cũng là một biện pháp quan trọng để xây dựng văn hóa giao thông, tạo ra một môi trường giao thông an toàn, thông suốt và hiện đại, góp phần xây dựng một đất nước phồn vinh và hạnh phúc.


Tác giả: Hoàng Phúc