A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kỷ niệm 90 năm Cuộc đấu tranh lưu huyết tại Ngục Kon Tum (12/12/1931-12/12/2021

BÀI 1: LỊCH SỬ CUỘC ĐẤU TRANH VANG ĐỘNG NÚI RỪNG

Trong chặng đường lịch sử Kon Tum, 2 sự kiện “Cuộc đấu tranh lưu huyết” diễn ra ngày 12/12/1931 và “Cuộc đấu tranh tuyêt thực” bắt đầu từ ngày 12 – 16/12/1931 của những tù nhân chính trị ở nhà đày Kon Tum chính là khúc trang ca bất diệt về lòng yêu nước, tinh thần quật cường của những chiến sĩ cộng sản Việt Nam đã khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Và đó chính là tấm gương phản chiếu cho chúng tôi – những thế hệ mai sau…

Từ “địa ngục trần gian”…

Nhà ngục Kon Tum là nơi giam giữ tù chính trị được lập sớm nhất khu vực Tây Nguyên do thực dân Pháp xây dựng từ những năm 1915-1917. Năm 1929, thực dân Pháp bắt đầu đưa tù nhân chính trị từ nơi khác về giam giữ tại đây với âm mưu thâm độc là vừa cách ly tù chính trị với phong trào cách mạng ở miền xuôi, đồng thời lợi dụng lam sơn chướng khí, lao động khổ sai, ăn uống kham khổ để giết dần, giết mòn người tù chính trị. Xiềng xích Những năm 1930-1931, sau thất bại của cao trào cách mạng Xô Viết-Nghệ Tĩnh, trong chiêu bài lừa bịp đi “Tự do sinh hoạt”, thực dân Pháp lần lượt đưa các đoàn tù chính trị Cộng sản ở nhà lao các tỉnh đồng bằng lên giam cầm ở Ngục Kon Tum. Để tiếp tục tiêu diệt phong trào cách mạng và đảng viên cộng sản, chúng quyết định mở các công trường ở miền rừng núi nhằm mục đích: Nhanh chóng giảm bớt số lượng tù nhân bị giam giữ chật kín ở nhà đày các tỉnh miền Trung; khai thác sức lao động không công của tù nhân để xây dựng tuyến đường 14 nối liền các tỉnh Tây Nguyên với vùng đồng bằng, trung du ven biển để phục vụ cho mưu đồ cai trị và khai thác thuộc địa của chúng; Lợi dụng nơi rừng núi xa xôi, dân cư thưa thớt cách xa các trung tâm đô thị và đồng bằng nhằm cách ly tư tưởng Cộng sản; đồng thời để giết dần, giết mòn các tù nhân chính trị mà không sợ tai tiếng và dư luận lên án. Tại đây, thực hiện âm mưu lợi dụng Kon Tum nơi rừng thiêng, nước độc, hoang vắng để giết dần, giết mòn những người Cộng sản, thực dân Pháp đã áp dụng một chế độ cai trị cực kỳ dã man, tàn bạo đối với tù nhân trong công cuộc làm đường 14 xâm lược. Cuộc sống vô cùng tồi tệ, ốm đau, bệnh tật không được cứu chữa; đã vậy lại thường xuyên bị những trận đòn roi, báng súng đánh đập vô cớ, với những trò giết người man rợ của bọn cai, đội và binh lính. Nhà đày Kon Tum Sáu tháng trên công trường (từ tháng 12/1930 đến tháng 6/1931) Đăk Pao, Đăk Pét, tù nhân phải lao động nặng nhọc trên 10 giờ đồng hồ mỗi ngày, dưới mọi thời tiết, đầu không có nón đội, mình không có mãnh che mưa. Ngày đã không có thời gian nghỉ ngơi, tối đến, giấc ngủ cũng chẳng đầy bởi sự hành hạ của binh lính và tiếng rên la thảm thiết của những người tù đau ốm. Chế độ ăn uống vô cùng kham khổ. Cơm lẫn nhiều trấu sạn; mắm muối đầy dòi bọ; nước uống cũng chỉ là thứ nước múc từ khe, suối bẩn đục, đầy lá rừng và phân thú hôi tanh.

Không chỉ mỗi điều kiện làm việc, ăn ở, những người tù chính trị nơi đây hàng ngày còn phải chịu sự hành hạ vô cùng dã man của bọn thực dân, tay sai vô nhân tính. Chúng đánh đập, hành hạ tù nhân bất cứ lúc nào, với hàng ngàn lý do. Roi da, gậy hèo và báng súng đã trở thành nổi ám ảnh của những người tù chính trị. Chúng đánh đập tù nhân ngay từ sáng sớm, vào lúc điểm danh, trong lúc đang lao động, lúc ăn cơm, tiểu tiện và cả lúc đi ngủ… Tàn ác hơn, chúng thường xuyên lấy tù nhân ra làm trò đùa, mua vui với những hành vi hết sức man rợ: Chúng bắt tù nhân già đem ra vắt râu, bắt ăn phân trâu, phân bò, treo ngược tù nhân lên cây, trói vào tổ kiến… Điều kiện sống khắc nghiệt, thiếu thốn đã đẩy những người tù đến dưới hạn tận cùng của sức chịu đựng. Nhiều người lâm vào ốm đau, bệnh tật song không có thuốc uống, không có cán bộ y tế khám chữa. Số lượng tù nhân chết vì đau ốm ngày càng nhiều, có đợt phải chứng kiến 19 tù nhân bỏ mạng cùng một lúc. Các tù nhân phải đương đầu với những âm mưu thâm độc, những trận đòn tàn ác và cái khắc nghiệt của thời tiết.

Nỗi đau đớn, thống khổ tột cùng của tù nhân không làm sao kể xiết. Chỉ trong vòng sáu tháng, từ tháng 12-1930 đến tháng 6- 1931 đã có trên 170 trong số 500 người tù hy sinh ở chốn rừng thiêng nước độc này. Trong ba năm (từ năm 1930 đến 1933), nhà Lao Trong đã chứng kiến nhiều tội ác của thực dân Pháp và sự hy sinh của gần 300 chiến sĩ cách mạng trong tổng số 500 tù chính trị được đưa lên Kon Tum.

Đến Chi bộ đầu tiên được thành lập…

Thế nhưng, với tinh thần bất khuất, kiên trung của mình, những người Cộng sản đã đi đầu, lãnh đạo quần chúng cách mạng đấu tranh. Họ không sợ chết khi giáp mặt với kẻ thù. Khi bị giam ở Ngục Kon Tum, họ lại một lần nữa toả sáng chất thép, trở thành chỗ dựa cho quần chúng cách mạng trong ngục tù đế quốc. Những người cộng sản, đã được tôi luyện trong ngọn lửa đấu tranh cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh, những người con Nghệ Tĩnh đã kiên cường, bất khuất đấu tranh chống lại mọi mưu mô, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của kẻ thù.

Và đặc biệt hơn nữa, bằng lý tưởng trong sáng và tinh thần kiên trung của mình, họ đã biến nhà tù thực dân trở thành trường học cách mạng để những người cộng sản lớp trước đào tạo, rèn luyện cho những chiến sỹ cách mạng đàn em về lý tưởng cộng sản, về lý luận Mác – Lênin, về đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới, về phẩm chất của những người cộng sản…

Họ tích cực tuyên truyền, vận động, giác ngộ nhân dân và binh lính, làm cho họ hiểu rõ hơn, đúng hơn về người tù chính trị. Vì vậy, tình cảm của đồng bào với tù chính trị trở nên thân thiết hơn. Thái độ và hành động đối xử của binh lính đối với tù nhân cũng khá hơn trước. Một số anh em lính bắt đầu chống lại bọn chỉ huy, họ đứng về phía tù nhân đấu tranh khi chúng bắt tù đi làm ngày chủ nhật hoặc chống lại sự đàn áp người tù. Trải qua những thời khắc khó khăn, gian khổ, chi bộ Đảng Ngục Kon Tum được thành lập do đồng chí Ngô Đức Đệ, người huyện Can Lộc, Hà Tĩnh làm Bí thư. Đồng chí Ngô Đức Đệ đã tuyên truyền và cảm hóa một số cai, đội, binh lính ở nhà lao thành những người yêu nước tiến bộ rồi bồi dưỡng, thử thách, để đến giữa tháng 9/1930, lần lượt kết nạp đội Thơ (Huỳnh Đăng Thơ), cai Liễu (Huỳnh Liễu), cai Cừ (Nguyễn Cừ) vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến ngày 25/9/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Kon Tum đã ra đời ngay tại nhà Ngục Kon Tum (Chi bộ Binh). Đây là chi bộ Đảng đầu tiên ra đời ở Kon Tum và ngày này đã trở thành ngày truyền thống của Đảng bộ tỉnh Kon Tum. Đầu tháng 7-1931, Ban phụ trách nhà lao được thành lập, tổ chức lực lượng, xây dựng kế hoạch đấu tranh chống lại chính sách cai trị tàn ác của chế độ thực dân, giành lại quyền sống, quyền tự do cho tù chính trị; chống lại âm mưu tiêu diệt người Cộng sản của đich, soạn các bài tuyên truyền bằng tiếng phổ thông, tiếng Pháp, tiếng Ba Na, tiếng Gia Rai.

Trong khi hai chi bộ đang tích cực tuyên truyền, vận động, thì không may, cơ sở cách mạng ở Trung kỳ bị vỡ, tác động dây chuyền đến Kon Tum. Tổ chức Đảng ở đây cũng bị bại lộ. Địch bắt giam cầm, tra tấn một số đồng chí, một số khác trong đối tượng tình nghi, địch ly gián ra Lao ngoài. Tại đây, số tù chính trị cũ và mới gặp nhau. Trước một tập thể giàu kinh nghiệm và đầy bản lĩnh trên trường tranh đấu, các chiến sỹ Cộng sản đã nhanh chóng hình thành một Ban lãnh đạo chung, tổ chức tuyên truyền, tập duyệt các anh em tù nhân đấu tranh từ hình thức thấp đến hình thức cao, từ tự phát đến tự giác….Và từ trong tập duyệt đấu tranh, tinh thần, khí thế cách mạng ngày càng được tôi luyện, dâng cao. Những đội Cảm tử, Quyết tử ra đời….Tất cả sẵn sàng cho một cuộc đấu tranh lớn, quyết sống còn với kẻ địch, mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh Lưu huyết vang động núi rừng của các anh em tù chính trị phản đối việc bắt tù nhân đi làm con đường xâm lược lần thứ 2.

Từ khi chi bộ Đảng ra đời, phong trào đấu tranh trong Ngục Kon Tum được tổ chức chặt chẽ để vừa đạt được mục đích, vừa đỡ mất mát hy sinh, xây dựng được khối đoàn kết, thống nhất trong anh em tù chính trị, giác ngộ tù thường phạm và cả những người lính cai ngục có lòng yêu nước.

Và cuộc đấu tranh vang động núi rừng….

Tháng 3/1931, hoạt động của Chi bộ binh và Chi bộ đường phố bị lộ. Trước tinh thần cách mạng anh dũng, kiên trung của các đảng viên Huỳnh Đăng Thơ, Huỳnh Liễu, Nguyễn Cừ, thực dân Pháp sau khi tra tấn dã man nhưng không khai thác được gì, đành áp giải ba đồng chí này về Nhà lao Buôn Ma Thuột. Đến giữa năm 1931, cả hai Chi bộ tan rã. Những tưởng sự tan rã của hai Chi bộ Cộng sản thì phong trào đấu tranh của tù chính trị cũng bị dập tắt. Nhưng không, ngọn lửa đấu tranh ấy tiếp tục bùng cháy, đỉnh điểm là Cuộc đấu tranh Lưu huyết vang động núi rừng. Đầu tháng 7-1931, sau khi Chi bộ binh ở nhà lao bị khủng bố, địch đưa đồng chí Ngô Đức Đệ – người tù chính trị bị giam đầu tiên tại Nhà lao Kon Tum ra giam ở Lao ngoài . Tại đây, số tù chính trị cũ và mới gặp nhau, đồng chí Ngô Đức Đệ đã thông báo về tình hình tù nhân làm đường, sự đàn áp, đày đọa tù nhân của kẻ địch, tình hình của Chi bộ binh, Chi bộ đường phố… Anh em tù chính trị đã hình thành một Ban Lãnh đạo chung và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên. Ban Lãnh đạo nhất trí hạ quyết tâm: “Muốn sống, không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh mà Đảng đề ra. Muốn bảo đảm cuộc đấu tranh thắng lợi nhất định chúng ta phải làm cho anh em đoàn kết nhất trí, có quyết tâm cao. Phải đấu tranh kiên quyết, bền bỉ, có kế hoạch chu đáo”. Mục tiêu đấu tranh là đòi thực dân Pháp bãi bỏ chế độ giết người dã man đối với tù chính trị, ưu đãi tù chính trị…

Từ tháng 9-1931, Ban đã thành lập Đội cảm tử và Đội quyết tử tiên phong, bất khuất trong quá trình đấu tranh với bọn cai trị thực dân, tay sai. Từ đó, nhiều cuộc đấu tranh của tù chính trị dưới nhiều hình thực đã liên tiếp nổ ra, trong đó có cuộc đấu tranh lưu huyết phản đối việc bắt tù chính trị lên Đăk Pét lần 2.

Sáng ngày 12-12-1931, với âm mưu định sẵn, bọn cầm quyền phân tán anh em tù đi làm các nơi nhằm xé lẻ đội ngũ tù, còn khoảng 40 người, chúng ra lệnh quay về phòng lấy quần áo để đi Đăk Pét. Trong số đó có bốn đồng chí là thành viên Ban lãnh đạo nhà tù (Đặng Thái Thuyến, Trương Quang Trọng, Nguyễn Huy Lung, Hồ Độ) và cả 40 tù nhân này đều là thành viên của Đội cảm tử, quyết tử. Do biết trước việc địch chuẩn bị đưa tù đi làm đường lần thứ 2 tại Đăk Pét, anh em tù ở Lao ngoài đã chuẩn bị để đối phó. Cuộc đấu tranh bắt đầu. Tất cả 40 tù nhân chạy vào phòng giam khóa chặt cửa lại và đồng thanh hô các khẩu hiệu “Nhất định không đi Đăk Pét”, “Phản đối đi Đăk Pét”, “Phải bãi bỏ chế độ bắt tù chính trị đi làm đường”, “Bãi bỏ chế độ đánh đập, bắt giết tù”…Sau đó, công sứ, giám binh, nhiều binh lính kéo đến bao vây xung quanh Nhà lao. Trong lao, anh em vẫn hô vang các khẩu hiệu và siết chặt hàng ngũ, đứng sắp hàng trước cửa lao, dùng gậy gộc đã chuẩn bị trước chống lại, không để cho bọn địch vào định bắt từng người đưa đi. Theo lệnh công sứ, viên đội Mulê cầm súng, tiến lại cửa nhà lao gọi: “Thằng tù số 299 đâu?”. Anh em trong nhà lao đồng thanh trả lời: “Không có tù số 299! Đả đảo đi Đăk Pét”. Nhưng đúng lúc ấy, đồng chí Trương Quang Trọng (số tù 303) đang đứng ở hàng đầu đã phanh áo, chỉ vào ngực, nói bằng tiếng Pháp “Le voici” (nó ở đây). Tên Mulê lập tức bóp cò, đồng chí Trọng hy sinh. Hành động anh dũng chết thay cho đồng đội của đồng chí Trương Quang Trọng và tội ác giết người không gớm tay của bọn cầm quyền Pháp đã thôi thúc anh em đấu tranh quyết liệt hơn, sẵn sàng đương đầu với súng đạn. Bọn địch điên cuồng nã súng tàn sát đẫm máu anh em tù chính trị làm 8 người chết, 8 người bị thương. Tại Lao trong, sáng 13/12/1931, số anh em tù còn lại đã tổ chức lễ truy điệu cho các đồng chí, đồng đội đã hi sinh. Trong niềm đau thương vô hạn, nỗi uất hận khôn lường, các tù nhân càng siết chặt đội ngũ, đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh đến cùng.

Chiều cùng ngày, Bản tuyên ngôn chính trị và yêu sách của tù nhân đối với chính quyền thực dân Pháp cũng được đưa ra. Bản tuyên ngôn đã vạch trần chế độ đối xử tàn bạo với tù chính trị của thực dân Pháp và đưa ra các yêu sách đòi nhà cầm quyền Pháp phải chịu trách nhiệm thực hiện. Trong đó đòi quyền được ăn uống, được thuốc men khi đau ốm cho tù nhân; bãi bỏ chế độ đánh đập, bắn giết, gông cùm và các hình phạt khắc nghiệt; đòi quyền được đọc sách báo và viết thư từ cho người thân… Cùng với những yêu sách đưa ra, anh em tù chính trị kiên quyết đấu tranh tuyệt thực để phản đối đi làm đường, phản đối hành động giết người tàn bạo của kẻ địch. Sáng 16/12/1931, thực dân Pháp một lần nữa nã súng tàn sát cuộc đấu tranh tuyệt thực làm cho 7 đồng chí hy sinh và 8 đồng chí bị thương, đồng thời lập tức áp giải, phân tán số tù nhân còn lại, dập tắt cuộc đấu tranh. Cả hai đợt đấu tranh trực diện, thực dân Pháp đã giết hại 15 đồng chí và làm bị thương 16 đồng chí. Tuy vậy, lo sợ trước tinh thần đấu tranh của tù chính trị, nhà cầm quyền Pháp buộc phải thả 50 người tù chính trị, thay đổi chế độ lao dịch, bỏ chế độ đánh đập tù nhân, người tù ốm đau được nghỉ và có thuốc men.

Tháng 12-1932, địch bỏ hẳn việc đưa tù chính trị đi làm đường 14, tháng 4-1934 xóa bỏ nhà đày Kon Tum và đưa tất cả số tù chính trị còn lại vào nhà đày Buôn Ma Thuột. Có thể khẳng định rằng, mặc dù bị kẻ địch đàn áp dã man, tàn bạo, song Cuộc đấu tranh Lưu huyết, với tinh thần quyết tử, chấp nhận hy sinh của các tù chính trị vì mục tiêu cao cả “Chết để sống”, “Chết một người để cứu muôn người” đã thể hiện được bản lĩnh, khí phách hiên ngang của các chiến sĩ Cộng sản trước lưỡi lê, mũi súng tàn bạo của quân thù; thể hiện ý chí, khát vọng vươn lên đấu tranh tìm đến chân lý độc lập, tự do cho mọi người, cho dân tộc, cho Tổ quốc. Cuộc đấu tranh đã gây được tiếng vang lớn đối với dư luận thế giới về quyền tự do công lý và nhân phẩm con người; tạo cho dư luận trong nước và thế giới biết rõ hơn về chính sách cai trị lao tù của Pháp ở Đông Dương; đã lật tẩy được bộ mặt đê hèn với sự giả danh của ngọn cờ “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” của bọn thực dân xâm lược. Cuộc đấu tranh Lưu huyết quyết liệt ấy đã thể hiện tinh thần quyết tâm sắt đá, là mệnh lệnh thiêng liêng của trái tim, khối óc của các chiến sĩ Cộng sản trước vận mệnh sống còn của đất nước,của dân tộc. Tuy cuộc đấu tranh bị bọn thực dân tàn sát đẫm máu, nhưng kết quả mang lại là rất to lớn, đã buộc địch phải thay đổi chế độ cai trị hà khắc và chấp nhận nhượng bộ theo yêu sách của anh em tù chính trị đưa ra. Và nhất là từ bỏ việc xây dựng con đường 14 xâm lược, đóng cửa và giải tán bộ máy nhà Ngục Kon Tum – lò giết người Cộng sản vào năm 1934 đã chứng minh sự thừa nhận thất bại của thực dân Pháp trước tinh thần đấu tranh quyết tử của tù chính trị và nhân dân các dân tộc nơi đây. Những cuộc đấu tranh trong Ngục Kon Tum đã thể hiện được bản lĩnh, khí phách hiên ngang của các chiến sĩ cộng sản và để lại cho thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ sau này những bài học kinh nghiệm xương máu như: Luôn luôn đề cao cảnh giác, tỉnh táo đề phòng âm mưu thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù. Giữ vững lòng tận trung, chí hiếu với dân, với nước, với đoàn thể, chiến thắng bản thân mình để vượt qua mọi thử thách, tiếp tục cuộc chiến đấu mới. Phát huy cao độ yếu tố dân tộc, tích cực cảm hóa thuyết phục anh chị em tù thường và hàng ngũ lính tráng, cai đội có ít nhiều tinh thần yêu nước để tập hợp lực lượng, tạo thuận lợi cho các cuộc đấu tranh trong tù. Tùy tình hình thực tế trong tù mà tổ chức cách hoạt động thích hợp, chuẩn bị mọi tư thế để ứng xử linh hoạt với mọi tình huống bất ngờ xẩy ra. Nuôi dưỡng tinh thần lạc quan cách mạng, chống mọi biểu hiện tiêu cực, bi quan, thất vọng; tranh thủ mọi thời gian để tổ chức sinh hoạt văn nghệ và học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa để chuẩn bị tiếp tục hoạt động sau khi ra tù. Chăm lo khối đoàn kết trong nội bộ tù nhân. Bằng mọi biện pháp duy trì đường dây liên lạc với tổ chức cách mạng và phong trào quần chúng bên ngoài nhà lao. Tù chính trị luôn giữa vững phẩm chất người chiến sỹ cách mạng cống hiến đến hơi thở cuối cùng.

Để chống lại âm mưu chia rẽ, ly gián của kẻ thù, các tầng lớp tù nhân cần tăng cường đoàn kết. “Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết” đó là bài học muôn thuở. Sống trong tù càng cần phải đề cao tinh thần nhân đạo, tình thương yêu đùm bọc nhau trước những hành động dã man tàn bạo của kẻ thù giai cấp và dân tộc, gạt bỏ mọi sự mặc cảm, thành kiến bởi sự khác nhau về cấp bậc, thành phần, tầng lớp xã hội, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc, đảng phái… Trên cơ sở đoàn kết nội bộ tù nhân, bằng mọi cách cảm hóa, tuyên truyền, giác ngộ ý thức cách mạng giác ngộ tù thường phạm và lính cai ngục có lòng yêu nước thành lập chi bộ Đảng Ngục Kon Tum. Tù chính trị Ngục Kon Tum đã xuyên thủng được cái vỏ bọc bằng thép của chế độ khắc tạo được mối quan hệ qua lại khá thường xuyên giữa hoạt động trong tù với phong trào bên ngoài. Các chiến sỹ cộng sản đã biến nhà tù thành một cơ sở, một môi trường hoạt động cách mạng. Đó là một điều kỳ diệu, một bài học đắt giá, được đúc kết bằng nhiều kinh nghiệm xương máu qua bao năm tháng, nhiều thế hệ tù chính trị.

Sau cuộc đấu tranh này, truyền thống cách mạng của Nhân dân Kon Tum tiếp nối trong dòng chảy lịch sử vẻ vang với những sự kiện quan trọng: Cuộc đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945; cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đến ngày toàn thắng; công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương sau ngày đất nước thống nhất đến nay.

(còn tiếp)

 Hoài Nhung